Vừa qua, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1509/QĐ-BCT, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 điều chỉnh (gọi tắt là Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh).
Kế hoạch được xây dựng nhằm cụ thể hóa Quyết định số
768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ; hướng đến mục tiêu đáp ứng
nhu cầu điện cho phát triển kinh tế, xã hội theo từng thời kỳ, bảo đảm phát
triển điện lực đi trước một bước.
Tổng công suất nguồn
điện tăng mạnh
Theo Kế hoạch, đến năm 2030, tổng công suất nhiệt điện
LNG 22.524 MW, nhiệt điện khí nội địa 14.930 MW, nhiệt điện than 31.055 MW, thủy
điện 33.294 - 34.667 MW, điện mặt trời 46.459 - 73.416 MW và điện gió trên bờ từ
26.066 - 38.029 MW.
Điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu trong nước đặt mục
tiêu đạt 6.000 MW vào năm 2030 và tăng lên 17.032 MW vào năm 2035.
Với hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2, mỗi
nhà máy dự kiến công suất từ 2.000 đến 3.200 MW, dự kiến vận hành trong giai đoạn
2030 - 2035.
Riêng điện sinh khối, rác thải, nhiệt dư từ các quy
trình công nghiệp... cũng được khuyến khích khai thác với tổng công suất điện
sinh khối 1.523 - 2.699 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn là 1.441 -
2.137 MW.
Đến năm 2030, tổng công suất pin lưu trữ dự kiến đạt
khoảng 10.000 - 16.300 MW. Phát triển điện mặt trời tập trung phải kết hợp với
lắp đặt pin lưu trữ với tỷ lệ tối thiểu 10% công suất và tích trong 2 giờ.
Đẩy mạnh xuất nhập
khẩu
Bên cạnh việc phát triển mạnh mẽ các nguồn điện trong nước, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng xác định rõ các định hướng chiến lược liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu điện trong khu vực ASEAN và tiểu vùng Mekong mở rộng.
Theo đó, Việt Nam sẽ đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các quốc
gia có tiềm năng thủy điện lớn. Dự kiến đến năm 2030, tổng công suất nhập khẩu
từ Lào đạt khoảng 9.360 - 12.100 MW, căn cứ theo các hiệp định hợp tác song
phương đã ký kết giữa hai Chính phủ; và tận dụng khả năng nhập khẩu phù hợp với
điều kiện đấu nối từ Trung Quốc với quy mô hợp lý. Nếu điều kiện thuận lợi, giá
thành hợp lý, có thể tăng thêm quy mô tối đa hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu
điện từ Lào về khu vực miền Bắc.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu điện cũng được xác định
là một mũi nhọn mới trong hợp tác kinh tế khu vực. Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục
tiêu tăng quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW.
Đến năm 2035, công suất xuất khẩu điện sang các thị
trường tiềm năng như Singapore, Malaysia và một số đối tác khác trong khu vực
có thể đạt từ 5.000 - 10.000 MW và duy trì quy mô tối thiểu 10.000 MW đến năm
2050. Mức xuất khẩu này có thể điều chỉnh cao hơn tùy theo nhu cầu thực tế của
bên nhập khẩu trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế, an ninh năng lượng quốc
gia và an ninh quốc phòng.
Để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu điện và sản xuất
năng lượng mới, Bộ Công Thương đã xác định rõ các khu vực tiềm năng gồm miền
Trung và miền Nam, quy mô xuất khẩu từ 5.000 MW đến 10.000 MW.
Sử dụng năng lượng tái tạo để sản xuất các loại năng
lượng mới (như hydro xanh, amoniac xanh) phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu:
Ưu tiên phát triển tại các khu vực có tiềm năng năng lượng tái tạo tốt, cơ sở hạ
tầng lưới điện thuận lợi; quy mô phát triển phấn đấu đạt 15.000 MW (chủ yếu là
nguồn điện gió ngoài khơi).
Bộ sẽ trình các cấp có thẩm quyền xem xét chủ trương
xuất khẩu điện theo từng dự án cụ thể, bảo đảm tuân thủ đúng quy định pháp luật
hiện hành.
Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII
điều chỉnh cũng xác định rõ các định hướng chiến lược liên quan đến nhập khẩu
và xuất khẩu điện
Đầu tư lưới điện và điện vùng khó khăn
Theo Kế hoạch, khoảng 911.400 hộ dân tại 14.676 thôn,
bản thuộc 3.099 xã trên toàn quốc sẽ được cấp điện qua lưới điện quốc gia hoặc
các nguồn năng lượng tái tạo.
Trong đó, khoảng 160.000 hộ dân chưa có điện, 751.400
hộ dân cần cải tạo) của 14.676 thôn bản trên địa bàn 3.099 xã, trong đó, số xã
khu vực biên giới và đặc biệt khó khăn là 1.075 xã (43 tỉnh) thuộc các tỉnh,
thành phố Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình,
Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Kon Tum, Đắk Nông, Đắk Lắk, Bạc Liêu, An Giang, Cần Thơ, Cao Bằng,
Lai Châu, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Nghệ An, TP. Huế, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Lâm
Đồng, Bình Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc
Trăng, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cà Mau; khu vực
còn lại là 2.024 xã;
Ngoài phục vụ sinh hoạt, chương trình cũng đặt mục
tiêu cấp điện 2.478 trạm bơm quy mô vừa và nhỏ (13 tỉnh) khu vực đồng bằng sông
Cửu Long thuộc các tỉnh, thành phố Bến Tre, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần
Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Cà Mau, kết hợp cấp điện cho nhân dân
Cấp điện lưới quốc gia hoặc các nguồn điện năng lượng
tái tạo cho các đảo còn lại: Đảo Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị; Đảo Thổ Châu, An Sơn -
Nam Du tỉnh Kiên Giang; Huyện đảo Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hình thành trung
tâm công nghiệp năng lượng tái tạo
Bộ Công Thương đề xuất xây dựng 2 trung tâm công nghiệp,
dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng.
Theo đó, trung tâm phía Bắc sẽ được đặt tại các địa
phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, với khả năng mở rộng ra các khu vực
lân cận trong tương lai. Trung tâm này sẽ bao gồm các nhà máy chế tạo thiết bị
phục vụ điện gió, điện mặt trời, các dịch vụ hậu cần, cảng biển chuyên dụng hỗ
trợ thi công, vận hành, bảo trì các dự án năng lượng tái tạo.
Bên cạnh đó là các khu công nghiệp xanh, phát thải
các-bon thấp và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu trong
lĩnh vực năng lượng sạch.
Tương tự, trung tâm phía Nam dự kiến đặt tại khu vực
Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh, nơi có tiềm năng
vượt trội về điện gió, điện mặt trời và hạ tầng cảng biển.
Mô hình phát triển tại đây tương đồng với trung tâm
phía Bắc, hướng đến việc xây dựng chuỗi giá trị hoàn chỉnh cho ngành năng lượng
tái tạo tại miền Nam.
Các tập đoàn năng
lượng được giao nhiệm vụ trọng yếu
Việc tổ chức, triển khai được phân công cụ thể tới từng
bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp chủ lực trong ngành năng lượng.
Theo đó, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Công Thương
xây dựng chính sách giá điện theo cơ chế thị trường và các cơ chế tài chính,
khuyến khích phù hợp nhằm hỗ trợ quá trình thực hiện quy hoạch.
Các bộ, ngành liên quan chủ động đề xuất chính sách,
tháo gỡ vướng mắc. UBND các tỉnh, thành cập nhật quy hoạch, bố trí đất, giải
phóng mặt bằng và giám sát tiến độ dự án điện.
Về phía các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ Công Thương,
thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình triển khai các dự án nguồn và lưới điện,
đề xuất giải pháp đối với các dự án chậm tiến độ; theo dõi chặt chẽ tình hình
cung ứng nhiên liệu, đặc biệt là khí và than cho sản xuất điện, đồng thời đôn đốc
tiến độ xây dựng hạ tầng tiếp nhận LNG; chú trọng tuyên truyền tiết kiệm điện
và chuẩn bị dự thảo sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Ở khối doanh nghiệp, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)
giữ vai trò nòng cốt trong bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định. EVN chịu
trách nhiệm triển khai các dự án nguồn và lưới truyền tải được giao, rà soát
cân đối cung cầu điện toàn hệ thống, cũng như phối hợp chặt với địa phương tháo
gỡ vướng mắc về mặt bằng, đấu nối. âng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi
phí và đẩy mạnh đổi mới quản trị để giảm giá thành điện. Tập đoàn phải chịu
trách nhiệm nếu các dự án chậm tiến độ, ảnh hưởng đến an ninh cung cấp điện.
Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam sẽ
tập trung tìm kiếm, khai thác các mỏ khí mới như Lô B, Cá Voi Xanh, Kèn Bầu…
cũng như xây dựng hạ tầng kho cảng, hệ thống khí phục vụ nhập khẩu LNG. Đồng thời,
có vai trò đầu mối trong triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi khi
có điều kiện.
Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng công ty
Đông Bắc có trách nhiệm chủ lực trong đảm bảo nguồn cung than cho sản xuất điện.
Cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất trong nước, triển khai các dự án điện
theo phân công.
Theo Cục Điện Lực