Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, tháng 5/2025, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 97,38 nghìn tấn, với trị giá 174,92 triệu USD, tăng 35,5% về lượng và tăng 25,4% về trị giá so với tháng 4/2025; So với tháng 5/2024 tăng 13,6% về lượng và tăng 28% về trị giá. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu cao su đạt 550,14 nghìn tấn, trị giá 1,04 tỷ USD, giảm 4,1% về lượng, nhưng tăng 21,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

Về giá xuất khẩu: Tháng 5/2025, giá bình quân cao su xuất khẩu đạt 1.796 USD/tấn, giảm 7,4% so với tháng 4/2025, nhưng tăng 12,6% so với tháng 5/2024. Tính chung 5 tháng đầu năm 2025, giá bình quân cao su xuất khẩu đạt 1.905 USD/tấn, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm 2024. Giá cao su thế giới phục hồi và duy trì ở mức tốt, giúp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu.

Tháng 5/2025, Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 67,89% tổng lượng cao su xuất khẩu, đạt 66,11 nghìn tấn, trị giá 117,78 triệu USD, tăng 39% về lượng và tăng 30,7% về trị giá so với tháng 4/2025; So với tháng 5/2024 tăng 30% về lượng và tăng 53,9% về trị giá. Giá bình quân cao su xuất khẩu sang Trung Quốc ở mức 1.781 USD/tấn, giảm 6% so với tháng 4/2025, nhưng tăng 18,4% so với tháng 5/2024. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 389,65 nghìn tấn cao su, trị giá 734,3 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 34% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

Trong khi đó, xuất khẩu sang Ấn Độ, Hàn Quốc và Nga đều ghi nhận mức giảm mạnh so với tháng 5/2024: Xuất khẩu tới Ấn Độ giảm 36,2% về lượng và giảm 32% về trị giá; tới Hàn Quốc giảm 38,7% về lượng và giảm 28,6% về trị giá; tới Nga SỐ RA NGÀY 10/6/2025 | 9 giảm 36,9% về lượng và giảm 24,5% về trị giá. Tuy nhiên, xuất khẩu cao su sang một số thị trường vẫn tăng trưởng tốt so với tháng 5/2024 như: Ma-lai-xi-a tăng 275,7% về lượng và tăng 250,7% về trị giá; Đức tăng 154,6% về lượng và tăng 168,2% về trị giá; Ca-na-da tăng 217% về lượng và tăng 226,7% về trị giá…


Trong 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu cao su của Việt Nam tăng trưởng tốt tới nhiều thị trường lớn như: Trung Quốc, Malaysia, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia… Tuy nhiên xuất khẩu sang một thị trường giảm mạnh như: Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, Nga, Xri Lanka, Pháp, Anh...

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, việc duy trì tăng trưởng xuất khẩu cao su, đặc biệt tới thị trường chủ lực Trung Quốc là một điểm sáng tích cực. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng xuất khẩu tới các thị trường như Malaysia, Canada, Đức... cũng cho thấy ngành cao su Việt Nam đang nỗ lực tái cơ cấu thị trường, nâng cao khả năng thích ứng và phát triển bền vững trong thời gian tới.

Tận dụng tốt cơ hội, chủ động thích ứng

Dự báo giá cao su tự nhiên trong năm nay có thể tăng khoảng 5–10% so với năm 2024. Theo nhận định từ Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), đây là cơ hội tốt để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, ngành cũng sẽ đối mặt với nhiều thách thức từ bất ổn địa chính trị, biến đổi khí hậu đến các yêu cầu về phát triển xanh, cắt giảm phát thải carbon.

“Thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến nhiều biến động từ địa chính trị, biến đổi khí hậu và xu hướng phát triển xanh. Lạm phát gia tăng, thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và áp lực giảm phát thải carbon tạo ra nhiều thách thức cho ngành cao su, đặc biệt khi ngành liên kết chặt chẽ với các lĩnh vực như ô tô, xây dựng và sản xuất hàng tiêu dùng” – Chủ tịch VRA, TGĐ VRG Lê Thanh Hưng nhận định.

Từ nay đến hết năm, VRA xác định một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng chương trình hỗ trợ xuất khẩu, mở rộng thị trường và tìm kiếm khách hàng. Đồng thời, chú trọng tiếp cận hiệu quả nguồn kinh phí Nhà nước, tăng cường kết nối và kiến nghị chính sách tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho doanh nghiệp.

Nguyên nhân của sự gia tăng này không chỉ đến từ nhu cầu phục hồi của thị trường quốc tế, mà còn nhờ năng lực sản xuất ổn định, chất lượng sản phẩm ngày càng cao và uy tín thương hiệu của doanh nghiệp Cao su Việt Nam. Trong khi đó, sản lượng tại các nước sản xuất lớn như Thái Lan và Indonesia giảm mạnh do mưa lớn kéo dài, dịch bệnh và diện tích trồng thu hẹp. Nguồn cung cao su xuất khẩu khó cải thiện trong thời gian ngắn do nhiều yếu tố bất lợi cả về thời tiết lẫn địa chính trị. Các doanh nghiệp trong nước đã tranh thủ gia tăng thu mua, chế biến và xuất khẩu, đảm bảo tiến độ giao hàng.

Bên cạnh đó, việc giữ vững các tiêu chuẩn chất lượng (ISO, PEFC-FM…) và thực hiện nghiêm túc cam kết về môi trường, trách nhiệm xã hội giúp cao su Việt Nam đáp ứng tốt hơn yêu cầu từ các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản.

Tuy vậy, không ít thách thức đang hiện hữu: chi phí logistics tăng, tình trạng thiếu container cục bộ, biến động giá dầu và chính sách kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt từ các nước nhập khẩu. Ngoài ra, cạnh tranh từ các thị trường mới nổi như châu Phi và Nam Mỹ cũng đang gia tăng.

Trong bối cảnh đó, ngành Cao su Việt Nam xác định chiến lược lâu dài là đẩy mạnh chuyển đổi số, tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm chi phí vận hành. Tăng cường giá trị gia tăng bằng cách phát triển sản phẩm công nghiệp cao su kỹ thuật (lốp xe, găng tay, vật tư y tế…). Mở rộng chứng chỉ bền vững và cam kết “cao su sạch”, đặc biệt phục vụ các thị trường cao cấp. Thúc đẩy liên kết vùng, hợp tác chuỗi giá trị từ nông hộ – nhà máy – thương mại – logistics.

Tầm nhìn mới cho Cao su Việt Nam

Cao su không chỉ là nguyên liệu thô, mà đang ngày càng trở thành ngành kinh tế công – nông nghiệp công nghệ cao, đóng vai trò chiến lược trong xuất khẩu và an sinh xã hội ở nhiều địa phương.

Với khoảng 930.000 ha cao su, sản lượng trên 1,2 triệu tấn/năm, xuất khẩu đạt khoảng 3 tỷ USD/năm, Việt Nam đang đứng thứ ba thế giới về sản xuất và thứ hai về xuất khẩu cao su thiên nhiên.

Tận dụng tốt thời cơ từ “khát hàng” toàn cầu, duy trì chất lượng ổn định, đẩy mạnh đổi mới, số hóa và phát triển bền vững sẽ là chìa khóa giúp Cao su Việt Nam nâng tầm vị thế, không chỉ là nhà cung ứng lớn mà còn là đối tác có trách nhiệm trong chuỗi giá trị toàn cầu.